Đôi khi đi xe, ta cảm thấy loại tiếng ồn này như một áp lực tác động tai mình khiến ta có cảm giác như ù tai. Gần giống như cảm nhận khi đi thang máy lên tầng cao hoặc từ tầng cao xuống thấp, nhưng khác ở chỗ tiếng ù thân xe là do giao động từ âm thanh còn trường hợp đi thang máy là do sự thay đổi áp suất lên màng nhĩ.
Cao độ âm thanh của nó tăng (tần số) theo tốc độ của xe. Nó xuất hiện trong một phạm vi tốc độ xe tương đối hẹp quanh 10km/h, hoặc khoảng 50 vòng/phút tốc độ của động cơ.
Nguyên nhân:
Trục các đăng tồn tại góc nối
– Khi có góc nối ở trục các đăng, sẽ có hai dao động mômen trong mỗi vòng quay của trục các đăng. Các dao động này trở nên lớn hơn khi góc nối tăng lên.
– Ở tốc độ nào đó của xe, các dao động mômen này sẽ làm cho hệ thống truyền lực rung, và truyền qua các bạc lót đòn treo của hệ thống treo phía sau hoặc các lò xo, làm cho các tấm ốp của thân xe rung. Điều này dẫn đến tiếng ù ù của thân xe.
Mất cân bằng động trục các đăng
– Khi trục các đăng không cân bằng, tạo ra lực li tâm có xu hướng làm cho các đầu trục các đăng cong ra ngoài và quay theo các vòng tròn lớn quanh đường tâm của trục. Dĩ nhiên là điều này thực tế không xảy ra vì trục các đăng được cố định ở cả hai đầu. Tuy nhiên, nó sẽ làm cho trục rung sau mỗi lần trục quay.
– Lực rung này tiếp tục được truyền qua các (giá bắt động cơ) chân máy phía sau, ổ đỡ giữa của trục các đăng, các bạc lót của hệ thống treo phía sau, và các tấm ốp của thân xe. Các tấm ốp thân xe bị rung sinh ra tiếng ù ù của thân xe
Rung động của ống xả
– Có 2 lý do lớn nhất làm ống xả dễ bị rung động tạo tiếng ồn: thứ nhất là ống xả dẫn từ động cơ đặt ở trước ra sau xe vì vậy nó dài và nhỏ; thứ hai là ống xả nối trực tiếp với động cơ – nguồn gây rung ồn chính của xe.
– Khi ống xả cộng hưởng với rung động của động cơ, rung động này được khuếch đại tiếp và truyền theo đường của các vòng đệm chữ O và các vòng kẹp của ống giảm thanh đến thân xe, gây ra tiếng ù ù của thân xe.
Rung ồn từ các bộ phận phụ tải trên xe
– Nếu các giá bắt máy phát điện, bơm trợ lực lái, hoặc máy nén điều hoà không khí được làm bằng vật liệu không đủ cứng vững, chúng sẽ cộng hưởng với rung động của động cơ. Rồi rung động này được truyền qua các chân máy đến thân xe, tạo ra tiếng ù ù của thân xe
2. Tiếng ồn do rung ly hợp:
Hiện tượng:
Triệu chứng này xuất hiện khi gài li hợp lúc khởi hành, làm xe rung nẩy theo suốt chiều dọc. Rung nẩy này dừng lại sau khi li hợp đã được ăn khớp hoàn toàn. Tiếng ồn này xuất hiện thường xuyên hơn khi xe chở tải nặng, hoặc khi bàn đạp li hợp bị nhấn nửa chừng trong thời gian kéo dài, như khi leo dốc hoặc tắc đường.
Nguyên nhân:
Đệm phần ma sát của li hợp bị mòn: Khi gài li hợp từ từ lúc khởi hành, độ mòn trên các bề mặt tiếp xúc của li hợp làm cho chúng trượt từng lúc, tạo ra sự dao động về mômen truyền từ động cơ.
Đĩa li hợp bị đảo quá mức và cộng hưởng trong hệ thống truyền lực: Dao động mômen này tạo ra rung động xoắn trong hệ thống truyền lực. Khi dao động mômen va rung động xoắn này cộng hưởng với nhau, làm khuếch đại dao động mômen này.
3. Các nguồn gây nên rung ồn trên xe:
Nói đến nguồn gây rung ồn, chắc hẳn nguyên nhân đầu tiên chũng ta nghĩ đến phải là động cơ. Đúng vậy, động cơ là nguyên nhân gây rung ồn lớn nhất trên xe. Trong động cơ, vì nhiên liệu được đốt trong buồng cháy và nhiều bộ phận chuyển động, tạo ra nhiều loại lực rung. Chúng làm cho động cơ bị rung, làm cho bản thân động cơ trở thành một bộ phận tạo rung động. Chúng được truyền đến hệ thống truyền lực và thân xe, từ đó khiến xe rung lắc và tạo tiếng ồn.
Có nhiều yếu tố liên quan đến việc tạo ra lực rung trong các động cơ, nhưng trong các yếu tố này, hai yếu tố sau đây là đặc biệt quan trọng. Một yếu tố là áp suất cháy của nhiên liệu trong buồng đốt. Yếu tố còn lại là lực quán tính do chuyển động tịnh tiến của pittông và chuyển động quay của trục khuỷu gây ra. Hai yếu tố này tạo ra dao động của mômen và độ rung trong động cơ. Ngoài hai yếu tố này, các yếu tố do chuyển động cơ học của các bộ phận gây ra tiếng ồn của động cơ.
a. Dao động mô men do áp suất cháy:
Hiện tượng:
Lực rung do áp suất cháy gây ra dao động mômen ở trục khuỷu, được truyền đến hệ thống truyền lực. Nó cũng tác động lên thân máy như là một phản lực và làm cho động cơ bị rung. Áp suất cháy dao động ít hơn khi số vòng quay của động cơ cao và khi động cơ có số xi lanh nhiều hơn. Lý do là vì chỉ có 1 kỳ trong 4 kỳ của động cơ đốt trong sinh công, 3 kỳ còn lại tiêu tốn công nên trong 1 chu kỳ, 1/4 thời gian sẽ có áp suất cháy rất lớn, 3/4 chu kỳ còn lại có áp suất cháy nhỏ hơn rất nhiều.
Hành trình nạp và nén tiêu tốn công của động cơ
Khi số vòng quay của động cơ tăng, thời gian của `1 chu kỳ ngắn hơn giúp thời gian chênh lệch áp suất cháy ngắn hơn giúp xe đỡ bị rung ồn hơn; còn khi động cơ có số xylanh nhiều hơn, sự sắp xếp xen kẽ các kỳ nổ sẽ giúp thời gian chênh lệch áp suất cháy bị chia nhỏ ra do trong cùng 1 khoảng thời gian có nhiều kỳ nổ hơn.
Chỉ có cháy giãn nở mới sinh công khiến trục khuỷu chịu tải trọng thay đổi theo chu kỳ
Dao động mômen trở nên lớn hơn khi góc mở của bướm ga lớn (khi tải trọng của động cơ lớn, vì áp suất cháy tăng lên). Do cấu tạo của động cơ, không thể tránh được dao động mômen. Nếu nguyên nhân rung động và tiếng ồn là sự dao động mômen, thì việc khắc phục rất khó.
Giải pháp:
Dùng puli
Dao động của áp suất cháy gây ra sự biến dạng đàn hồi ở trục khuỷu, tạo ra rung động xoắn. Rung động xoắn tăng xung quanh đầu trục khuỷu, vì vậy cần thiết kế puly để có một giảm chấn dao động xoắn.
Bánh đà
Bánh đà duy trì các dao động mômen của động cơ như lực quán tính, và giảm các dao động mômen để động cơ quay được êm dịu hơn. Một bánh đà nặng hơn có thể giảm các dao động mômen bằng cách tăng hiệu suất quán tính, nhưng làm cho phản ứng của động cơ kém đi.
Do đó phải thiết kế bánh đà có trọng lượng thích hợp để có cả hai đặc tính này. Một số động cơ có các bánh đà với các bộ giảm xoắn lắp bên trong để tiếp tục giảm các rung động xoắn. Bánh đà có bộ giảm chấn xoắn được chia làm hai phần. Cơ cấu giảm chấn gồm có các lò xo nén được đặt giữa các phần này, và giảm các rung động xoắn và dao động mômen.
Li hợp
Li hợp truyền mômen đến hệ thống truyền lực. Vì vậy, li hợp có thể là một trong những phần tử truyền dao động mômen, đó là lực rung. Việc làm tăng đặc tính xoắn có hiệu quả trong việc giảm tiếng ù ù và tiếng ồn bánh răng ở hộp số hoặc các bộ phận của bộ vi sai. Để giảm tiếng kêu ù ù, hấp thu dao động mômen trong động cơ bằng cách giảm hằng số đàn hồi của lò xo xoắn có hiệu quả. Mặt khác, nó phải có đủ khả năng xoắn như là chức năng của bản thân đĩa li hợp.
Li hợp có thể giúp giảm lực rung
b. Mất cân bằng do quán tính:
Các lực rung bởi lực quán tính do cơ cấu đối trọng trục khuỷu tạo ra và sự không cân bằng trong vật thể quay. Trong các lực rung bởi quán tính, có thể cân bằng khối chuyển động tịnh tiến đến một mức nào đó bằng cách lựa chọn việc bố trí xi lanh (V6, V8 hay I6, I8) và hình dạng hợp lí của trục khuỷu. Nhưng rung động do quán tính không cân bằng tạo ra thì rất khó để giải quyết triệt để.
Để khắc phục hiện tượng này, một số động cơ được trang bị một trục cân bằng. Lực rung do sự không cân bằng trong bộ phận quay tạo ra trước hết là rung động của động cơ. Có thể giảm sự không cân bằng này bằng các đối trọng. Lực do sự không cân bằng tạo ra tăng theo tỷ lệ bình phương của số vòng quay, nên rung động được khuếch đại mạnh khi tăng số vòng quay. Một giải pháp nữa đó là như đã nói ở trên, việc bố chí và tính toán thời điểm nổ các xylanh cho hợp lý cũng có thể giảm lực rung bởi quán tính gây ra.
Cân bằng động cơ đốt trong là gì?
a. Hệ thống nạp, xả:
Tiếng ồn của đường ống nạp bao gồm âm thanh của không khí hút vào và các tiếng cộng hưởng. Âm thanh mạch động do không khí chuyển động) có tần số tương đối cao. Nó được xác định bằng lượng không khí, hình dạng của bộ lọc khí, đường kính và chiều dài của ống nạp.
Tiếng cộng hưởng có tần số tương đối thấp. Nó được tạo ra khi tần số của tiếng ồn ống nạp và tần số cộng hưởng của hệ thống hút trùng với nhau ở một số vòng quay của động cơ. Cũng vậy, sự dao động của áp suất khí nạp đôi khi phát ra các âm thanh bức xạ từ bề mặt bên ngoài của hệ thống nạp. Rung động ở hệ thống nạp cũng truyền vào bên trong.
Tiếng ồn của hệ thống xả gồm có tiếng khí đốt xả ra khỏi ống giảm âm, và các âm thanh phát ra từ bên ngoài ống xả và ống giảm âm thanh.
Có thể giảm tiếng xả khí này bằng các đặc tính giảm thanh của bộ giảm âm (giảm thanh). Nhưng nếu dung tích của bộ giảm âm không đủ lớn, công suất của động cơ sẽ bị ảnh hưởng. Âm thanh phát ra bởi độ rung của các vách bộ phận do dao động của áp xuất xả, tạo ra rung động ở không khí xung quanh. Đôi khi rung động ở hệ thống xả cũng truyền đến thân xe và tạo ra âm thanh được truyền đi.